Đóng vai Mị Châu kể lại chuyện Mị Châu- Trọng Thủy là kể lại câu chuyện cổ tích nổi tiến Mị Châu- Trọng Thủy dưới lời kể của Mị Chậu.
Đây cũng là hướng dẫn soạn bài văn mẫu Đóng vai nhân vật Mị Châu kể lại câu chuyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 chương trình tiêu chuẩn tập 1 trang 39 – trang 43.
Về chuyện Mị Châu- Trọng Thủy
Mị Châu – Trọng Thủy là bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác với kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa việc riêng và việc chung, giữa việc nhà với việc nước, giữa cá nhân với cộng đồng.Truyện cũng giải thích nguyên nhân dẫn đến việc mất nước Âu Lạc trong lịch sử mang đậm màu sắc của những câu chuyện truyền thuyết.
Hình tượng nhân vật và những chi tiết hư cấu trong truyện cho thấy mối quan hệ giữa phần cốt lõi lịch sử với phần tưởng tượng của nhân dân.
Đóng vai Mị Châu kể lại chuyện
Mẫu 1- Đóng vai Mị Châu kể lại chuyện
Ta là Mị Châu, con gái của vua An Dương Vương, là công chúa của nước Âu Lạc. Từ nhỏ đã luôn được vua cha yêu thương hết mực, không ai ngờ ta sẽ gieo mối họa lớn cho cha và đất nước của mình vì sự nhẹ dạ và ngây thơ, cả tin người. Hôm nay kể ra đây câu chuyện của ta như một bài học đắt giá để người đời sau soi vào, lấy đó làm lời răn về sự lý trí, cảnh giác, phân minh giữa công và tư. Đừng dại khờ rước lấy sự phản bội từ kẻ vô tâm và gây khổ đau cho người yêu thương mình. Cái đau tận xương cốt ấy trong ta có lẽ là mãi mãi …
Thần Kim Quy sau khi giúp vua cha xây thành cổ Loa, đã ban cho một cái móng của mình để làm lẫy nỏ giữ thành. Chiếc nỏ, có được móng chân của thần làm lẫy, có thể bắn trăm phát trúng cả trăm, và chỉ một phát có thể giết hàng ngàn quân địch, lấy tên “Linh quang Kim Quy thần cơ”. Mọi người đều gọi đó là nỏ thần. Cha ta chọn trong các vị quan thần được một người rất khéo tên là Cao Lỗ và giao cho nhiệm vụ chế tạo chiếc nỏ thần. Cao Lỗ đã bỏ sức nghiên cứu, gia công trong nhiều ngày mới hoàn thành. Chiếc nỏ to lớn và chắc chắn, khác hẳn với những nỏ thường. Đặc biệt lúc mới thử nỏ không ai cũng có thể giương nỏ, chỉ có vua cha mới có thể phát huy hết lực công phá của nỏ thần. Cha quý chiếc nỏ thần vô cùng, xây riêng một nơi bí mật để cất giữ nỏ.
Nhờ có nỏ thần, quân ta liên tục thắng trận, thành công bảo vệ biên cương trước tham vọng của Triệu Đà mà không phải phí hoài tướng sĩ. Đất nước vui mừng, mở tiệc vui ca với hy vọng về tương lai ấm no của dân tộc. Điều không tưởng là Triệu Vương sai Trọng Thuỷ – con trai lão – sang cầu thân. Trọng Thủy lớn lên khôi ngô, tuấn tú, cũng là một tướng tài của đất nước lại thêm miệng lưỡi ngon ngọt đã nhanh chóng được lòng cha ta. Thấy đôi trẻ xứng đôi vừa lứa, Trọng Thủy có thể là một tấm chồng tốt để ta trao thân gửi phận, vua cha liền gả ta cho chàng.
Hơn hết, Trọng Thủy cũng bằng lòng ở rể, sống trong cung điện cùng cha con ta. Từ lúc lấy nhau, chàng yêu chiều ta hết mực, so với cha ta cũng không thua kém một phần nào. Ta lúc ấy chính là người hạnh phúc nhất thế gian, có cha chiều chuộng có chồng thương yêu có muôn dân bá tánh tôn trọng. Ta cũng sẵn sàng làm tất cả để bảo vệ hạnh phúc gia đình mình dù là trao trọn con tim hay nhất mực tin tưởng một người.
Đến một hôm chàng hỏi dò về việc giữ thành của cha ta. Ta cũng thành thật tường thuật tất cả những điều mình biết cho người chồng yêu quý của ta nghe, bao gồm cả về nỏ thần. Chồng ta có vẻ rất ngạc nhiên, hào hứng muốn được xem chiếc nỏ. Ta không ngần ngại, lập tức chạy đến nơi cất giữ, lấy nỏ thần đem ra cho chồng xem.
Nơi cất giữ ấy là hoàn toàn bí mật, chỉ có ta và cha biết. Vì cha luôn yêu thương hết mực tin tưởng đứa con gái là ta, cả cách sử dụng ta cũng được cha hướng dẫn để đề phòng bất trắc trong tương lai. Đứa con gái yêu quý của cha lại chỉ cho tên gian xảo biết cách sử dụng và tất cả bí mật của nỏ thần. Chồng ta là người ham học hỏi cái mới, thích nghe chuyện lạ bốn phương. Đó là điều ta từng tin tưởng.
Có lần, Trọng Thủy vì chữ hiếu “nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ” muốn về phương Bắc thăm cha. Ta lòng không nỡ xa người thương, Trọng Thủy cũng bùi ngùi xa chẳng may loạn lạc, khó thể tìm gặp, biết đâu hội ngộ. Cảm động trước tình yêu của người chồng son sắt, ta nghĩ ra chiếc áo lông ngỗng mà cha tặng: “Thiếp có cái áo gấm lông ngỗng, đi đến đâu sẽ bứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau.”
Sau khi Trọng Thủy đi không bao lâu, quân của Triệu Đà – cha chồng ta đã kéo sang đánh Âu Lạc. Như bao lần trước có nỏ thần, vua cha không hề lo sợ, khoan thai đánh nốt ván cờ rồi mới lấy nỏ ra trận. Đến khi quân giặc đã đến sát chân thành, cha giương nỏ thần ra bắn thì nó chẳng khác gì chiếc nỏ tầm thường. Tình thế hiểm nguy, quân sĩ lập tức yểm trợ để cha rút lui. Cha vội lên ngựa, bỏ lại tất cả, trên người chỉ mang một thanh kiếm phòng thân và để ta ngồi sau lưng, phi thoát về phương Nam.
Ngồi sau lưng cha, ta chỉ biết nghĩ về người chồng đi xa chưa biết tin tức, sợ chàng lo lắng, ta y theo lời hẹn ước bứt lông ngỗng ở áo rắc khắp dọc đường.
Ngựa phi không biết bao lâu, cuối cùng trước mặt cha con ta chỉ có biển mênh mông không còn đường chạy. Trước mặt là biển lớn, sau lưng là quân địch hung tàn, không còn lối nào chạy, cha liền hướng ra biển, khấn thần Kim Quy: “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu.” Cha vừa khấn xong thì thần Kim Quy xuất hiện, bảo cha rằng: “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!”
Cha bàng hoàng trước sự thật. Ta cũng đau đớn hiểu ra sự tình, chỉ kịp khấn: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người ta lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù.” Rồi nhận lấy án tử từ cha mà không một lời oán trách.
Sau khi ta mất dù có hóa thành châu ngọc hay có được thờ phụng thế nào thì nỗi ô nhục hại nước hại dân ta vẫn mang trên vai và tự khắc trong tâm tưởng. Cũng như Trọng Thủy dù có tự vẫn để bồi tội thì chàng vẫn là công thần của nước chàng và là người chồng bội bạc, người rể bất nhân bất nghĩa. Cái chết của ta là để cha ta một phần chuộc lỗi với xã tắc. Còn tội nghiệt của ta, hại đất nước rơi vào tay giặc chỉ vì sự vô tư, vô nghĩ của mình thì như biển cả muôn đời không vơi cạn được.
Gửi lời đến những cô gái dại khờ, tình yêu là tươi đẹp nhưng hãy nhìn kỹ kẻ ta để trong tim là người hay là dã thú. Giữa công và tư là một khoảng cách rất lớn. Trước khi dấn thân vào những câu chuyện cảm xúc nồng nhiệt thì vẫn phải nhớ sau lưng chúng ta còn ai đang chờ.
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu…
(bài thơ “Tâm sự” của Tố Hữu)
Mẫu 2- Đóng vai Mị Châu kể lại chuyện
Tôi là Mị Châu, con gái của vua An Dương Vương. Được vua cha yêu thương hết mực nhưng tôi cũng gieo vạ lớn cho cha và đất nước vì nhẹ dạ và ngây thơ tin người. Câu chuyện của tôi là một bài học đắt giá để người đời soi vào, lấy đó làm lòi răn về sự cảnh giác. Cho đến tận bây giò cái cảm giác đau đớn vì bị phản bội vẫn còn âm ỉ trong tôi.
Sau khi giúp cha tôi xây thành cổ Loa, thần Kim Quy cho cha tôi một cái móng của mình để làm lẫy nỏ mà giữ thành. Theo lời thần dặn, nỏ có được cái lẫy làm bằng móng chân thần sẽ là chiếc nỏ bắn trăm phát trúng cả trăm, và chỉ một phát có thể giết hàng ngàn quân địch. Cha tôi chọn trong đám gia thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao Lỗ và giao cho Lỗ làm chiếc nỏ thần. Lỗ gắng sức trong nhiều ngày mới xong. Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng, khác hẳn với những nỏ thường, phải tay lực sĩ mới giương nôi. Cha quý chiếc nỏ thần vô cùng, lúc nào cũng treo gần chỗ nằm.
Lúc bấy giờ Triệu Đà chúa đất Nam Hải, mấy lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì cha tôi có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều nên Đà đành cố thủ đợi chờ thòi cơ. Triệu Đà thấy dùng binh không được, bèn xin giảng hòa với cha tôi, sai con trai là Trọng Thuỷ sang cầu thân, nhưng chủ ý là tìm cách phá chiếc nỏ thần. Điều này thì về sau, khi quân đà kéo sang và nỏ thần không còn hiệu nghiệm, cùng cha bỏ trông tôi mới vỡ lẽ. Trong những ngày đi lại để giả kết tình hoà hiếu, Trọng Thuỷ gặp tôi. Lúc bấy giờ tôi là một cô gái mới lớn, một thiếu nữ mày ngài, mắt phượng. Trọng Thuỷ đem lòng yêu tôi, tôi dần dần cũng xiêu lòng. Và dần trở nên thân thiết, không còn chỗ nào trong Loa thành mà tôi không dẫn chàng đến xem. Cha tôi không nghi kỵ gì cả. Thấy đôi trẻ thương yêu nhau, vua liền gả tôi cho Trọng Thuỷ. Chàng cùng chung sống trong cung điện với tôi. Một đêm trăng sao vằng vặc, trong câu chuyện tỉ tê, Trọng Thuỷ hỏi: Nàng ơi, bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được? Tôi vô tư đáp:
– Có bí quyết gì đâu chàng, Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, như thế còn có kẻ nào đánh nổi được?
Chàng ngỏ ý muốn xem chiếc nỏ. Tôi không ngần ngại, ngây thơ chạy ngay vào chỗ nằm của cha, lấy nỏ thần đem ra cho chồng xem, lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy và giảng cho Trọng Thủy cách bắn. Trọng Thủy chăm chú nghe, chăm chú nhìn cái lẫy, nhìn khuôn khổ cái nỏ hồi lâu, rồi đưa cho tôi cất đi.
Sau đó, Trọng Thủy xin phép cha tôi về Nam Hải, Trọng Thủy thuật lại cho Triệu Đà biết về chiếc nỏ thần. Đà sai một gia nhân chuyên làm nỏ, chế một chiếc lẫy nỏ giống hệt của An Dương Vương. Lẫy giả làm xong, Trọng Thủy giấu vào trong áo, lại trở sang Âu Lạc. Thừa lúc bố tôi không để ý, Trọng Thủy đánh tráo ăn cắp nỏ thần.
Trọng Thủy lấy cớ “nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ” nói dối về phương Bắc thăm cha. Tôi buồn rầu lặng thinh, Trọng Thủy nói tiếp: Bây giò đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giở gặp lại! Nếu chẳng may xảy ra binh đao, biết đâu mà tìm?
Tôi tin lời chàng ngay, lòng đau đớn nói:
– Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy về hướng nào thì thiếp sẽ rắc lông ngỗng ở ngã ba đường, chàng cứ chạy theo dấu lông ngỗng mà tìm.
Về đất Nam Hải, Trọng Thủy đưa cái móng rùa vàng cho cha. Chỉ ít ngày sau, Triệu Đà đã ra lệnh cất quân sang đánh Âu Lạc. Nghe tin bao, cha cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Đến khi quân giặc đã đến sát chân thành, cha sai đem nỏ thần ra bắn thì không thấy linh nghiệm nữa. Quân Triệu Đà phá cửa thành, ùa vào. Cha vội lên ngựa, để tôi ngồi sau lưng, phi thoát ra cửa sau.
Ngồi sau lưng cha, tôi bứt lông ngỗng ở áo rắc khắp dọc đường.
Ngựa chạy luôn mấy ngày đêm đến Dạ Sơn gần bờ biển. Hai cha con định xuống ngựa ngồi nghỉ thì quân giặc đã gần đến. Không còn lối nào chạy, cha liền hướng ra biển, khấn thần Kim Quy phù hộ cho mình. Cha vừa khấn xong thì một cơn gió lốc cát bụi bốc lên mù mịt, làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Quy xuất hiện, bảo cha rằng:
– Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!
Cha tỉnh ngộ, tôi cũng đau đớn hiểu ra sự tình, nguyện sinh nhận cái chết để chuộc lỗi lầm khủng khiếp mà mình đã gây ra. Tuy vậy lòng tôi không khỏi ân hận. Tôi tự trách mình đã gây ra cảnh mất nước, trách Trọng Thủy lợi dụng tình yêu của tôi.
Từ câu chuyện của chính mình, tôi khuyên các bạn lúc yêu đừng nên mù quáng mà đánh mất chính mình, đừng để sai lầm của mình mà tạo ra sự mất mát và đau khổ của người khác. Tôi cố gắng làm những việc tốt để mong bù lại tội lỗi mà mình đã gây ra.
Mẫu 3- Đóng vai Mị Châu kể lại chuyện
“Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.”
Đó là một bài thơ mà người sau đã kể lại sự việc tai họa của tôi. Tôi là Mị Châu con gái của vua An Dương Vương. Ông yêu thương tôi hết mực, chiều chuộng con gái. Ấy vậy mà vì sự ngu ngốc của mình tôi đã trở thành tội đồ của cả dân tộc, được thế hệ sau nhắc đến như một bài học đắt giá cho sự cảnh giác. Câu chuyện quanh một chiếc bảo bối thần kì – chiếc Nỏ thần và người đàn ông mà tôi yêu thương nhẹ dạ cả tin, đã cho tôi một bài học lớn trong cuộc đời mình.
Năm ấy, cha tôi cho xây thành Cổ Loa, nhưng xây mãi mà vẫn bị đổ. Trong lúc gặp khó khăn đó, may thay nhờ thần Kim Quy cứu giúp, cha tôi đã xây dựng được một khung thành vững chắc, đào hào sâu. Vị thần còn cho cha tôi một cái một cái móng của chính mình để làm nỏ thần. Nhờ có thêm cái móng đó sẽ giúp nâng sức mạnh của chiếc nỏ lên gấp vạn lần, bắn trăm trúng cả trăm, có thể giết hàng ngàn quân địch. Cha đã giao nhiệm vụ làm chiếc nỏ thần cho một người cao tay, khéo léo, tên là Cao Lỗ. Sau khi Cao Lỗ tỉ mỉ làm xong chiếc nỏ thần, chiếc nỏ trở thành bảo bối quý, lúc nào cũng để cạnh gần cha.
Lúc bấy giờ, bên Nam Hải có tên Triệu Đà luôn lăm le muốn xâm lược Âu Lạc, nhưng cứ cho quân sang đánh thì đều bị thất bại dưới tay cha tôi. Triệu Đà không từ bỏ, tìm cách khác, ông ta giảng hòa với cha tôi bằng kế mượn con trai của chính mình sang cầu thân và tìm cách phá chiếc nỏ thần của cha tôi. Trong những ngày tháng hòa hiếu, Trọng Thủy gặp tôi và đem lòng yêu tôi. Tôi lúc đó là một thiếu nữ mới lớn, được dân gian truyền rằng là một nàng công chúa xinh đẹp mày ngài mắt phượng. Dần dần tôi cũng xiêu lòng với Trọng Thủy, cha tôi đã quyết định đồng ý gả tôi cho chàng, mà lòng không mảy may một chút nghi ngờ. Rồi chàng sang chung sống trong cung điện của Âu Lạc. Vào một đêm, hai chúng tôi đi dạo dưới ánh trăng vàng, chàng có hỏi tôi một câu: “Nàng ơi, bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được vậy?” Tôi thành thật mà đáp lại chàng: “Có gì đâu chàng, Âu Lạc có thành cao hào sâu, lại có thêm chiếc nỏ thần bắn trăm chết cả trăm, ai mà đánh lại được.”
Trọng Thủy ngỏ ý muốn xem bảo vật, tôi đã không ngần ngại mà mang nỏ cho chàng xem, chỉ bí quyết của chiếc nỏ, dạy chàng cách dùng. Chàng xem chiếc nỏ một cách tỉ mỉ, nghe tôi kể, rồi để lại đúng vị trí.
Không lâu sau, chàng xin phép vua cha về Nam Hải, chàng đã thuật lại mọi chuyện cho Triệu Đà biết, ông ta đã làm lại chiếc nỏ thần y hệt nhằm đánh tráo với chiếc thật của cha tôi. Trở về Âu Lạc, cha thiết rượu tiệc ăn mừng, chàng đã chuốc rượu cho cha tôi say rồi đánh tráo chiếc nỏ. Hôm sau, tôi có thấy chồng mình khá bồn chồn đứng ngồi không yên, tôi hỏi han: ” Chàng có gì lo lắng phải không?” Chàng đáp: “Phụ vương dặn phải về ngay để lên miền Bắc, miền Bắc xa lắm nàng ạ. Bây giờ đôi ta phải xa nhau không biết bao giờ mới được gặp lại. Nếu chẳng may xảy ra binh đao, tôi biết đâu mà tìm nàng?” Lòng tôi cũng buồn rầu lắm tôi nói mình có chiếc áo choàng lông ngỗng, tôi sẽ rải lông ngông, chàng cứ theo dấu đó mà tìm.
Về đến Nam Hải, chàng đưa ngay nỏ thần cho cha mình, Triệu Đà nhanh chóng đưa quân sang đánh. Cha tôi vẫn cậy có nỏ thần mà không phòng bị gì cả, nhưng đến khi nhận ra chiếc nỏ thần đã bị mất, giặc đã vào đến tận chân thành. Cha nhanh chóng leo lên lưng ngựa và mang tôi theo, ngồi sau lưng cha, tôi vẫn ngu ngốc rắc lông ngỗng trên đường. Cha thấy quân giặc vẫn đuổi bám chạy theo sau. Thấy đường núi quanh co, không còn cách nào khác, cha khấn thần Kim Quy cứu giúp. Thần bảo cha tôi rằng: ” Giặc sau lưng nhà vua đây!”
Cha nhận ra, tôi cũng tỉnh ngộ, tôi đau khổ nhận thấy mình thật ngu ngốc, tôi chấp nhận nhận lấy cái chết. Tôi rất ân hận, hận bản thân rất nhiều. Bản thân mình chính là nguyên nhân gây ra cảnh đất mất nhà tan. Tôi trách Trọng Thủy tại sao lại lợi dụng lòng tin của tôi, tại sao lại lỡ lừa gạt tôi. Trọng Thủy yêu thương tôi sâu sắc, vẫn phóng ngựa đi tìm tôi, thấy xác tôi chàng đau đớn vô cùng, chàng khóc trong tuyệt vọng. Chàng đem xác tôi mai táng trong thành rồi tự mình kết liễu cuộc đời tại chiếc giếng ngày xưa tôi thường tắm.
Tôi cũng nhận ra rằng chính tôi và Trọng Thủy cũng là nạn nhân của cuộc chiến này. Từ câu chuyện của tôi, nó đã để lại bài học quý giá về sau về sự cảnh giác. Và tôi cũng muốn nhắn nhủ một điều rằng: Hãy yêu thương và xóa tan đi hận thù.